Chương trình buổi sáng ngày 15/9, ngày cuối cùng trong chuyến tông du 3 ngày của Đức Thánh Cha đến Kazakhstan, bao gồm Thánh lễ riêng tại Toà Sứ Thần, gặp các tu sĩ Dòng Tên, gặp gỡ các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
Văn Yên, SJ – Vatican News
Ngày 15/9, ngày cuối cùng trong chuyến tông du 3 ngày đến Kazakhstan, Đức Thánh Cha đã bắt đầu với Thánh lễ riêng tại Toà Sứ Thần và sau đó gặp các tu sĩ Dòng Tên đang hiện diện tại Kazakhstan và các nước lân cận, như ngài vẫn thường làm trong các chuyến tông du. Cuộc nói chuyện của Đức Thánh Cha và các tu sĩ Dòng Tên diễn ra trong bầu khí thân tình và riêng tư. Nội dung cuộc nói chuyện sẽ được phổ biến trong những ngày tới.
Gặp gỡ các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ
Lúc 10:10 giờ địa phương, Đức Thánh Cha đã di chuyển đến Nhà thờ chính toà Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cách Toà Sứ Thần 4,3km để có cuộc gặp với các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
Buổi gặp gỡ bắt đầu với lời chào phụng vụ và lời chào của Đức cha Mumbiela Sierra, và bài đọc bằng tiếng Nga trích từ thư của thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Êphêsô (3,5-6.11-17): “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.”
Kế đến là bốn lời chứng của một linh mục – Ruslan, một nữ tu – Clara, một tín hữu Công giáo Hy lạp – Miroslava, và một nhân viên mục vụ – Kirill. Họ kể về những chứng tá đời sống đạo trong bậc sống của họ với những khó khăn và niềm vui, đồng thời về sự dấn thân của họ trong tư cách là Kitô hữu tại đất nước Kazakhstan của họ.
Một giáo hội nhỏ bé
Sau đó, Đức Thánh Cha đã có một bài diễn văn dành cho những người hiện diện. Khởi đi từ lời của Đức Cha Mumbiela Sierra nói rằng: “Hầu hết chúng tôi là người nước ngoài”; Đức Thánh Cha nói: “điều đó đúng, bởi vì anh chị em đến từ những nơi và đất nước khác nhau, nhưng vẻ đẹp của Giáo hội là thế này: chúng ta là một gia đình, trong đó không ai là người lạ. Tôi nhắc lại: không ai là người lạ trong Giáo Hội, chúng ta là một Dân thánh của Thiên Chúa được làm phong phú từ rất nhiều dân tộc! Và sức mạnh của đoàn dân tư tế và thánh thiện của chúng ta chính nằm ở chỗ sự đa dạng làm nên sự phong phú bằng cách chia sẻ những gì chúng ta là và những gì chúng ta có: sự nhỏ bé của chúng ta nhân lên nếu chúng ta chia sẻ nó.”
Bài diễn văn của Đức Thánh Cha dựa trên bài trích thư của Thánh Phaolô về sự thừa kế, và ngài chia sẻ về hai điểm liên quan là: ký ức và tương lai.
Ký ức
Trước hết là ký ức. Nếu ngày nay tại đất nước rộng lớn, đa văn hóa và đa tôn giáo này, chúng ta có thể nhìn thấy những cộng đoàn Kitô giáo sinh động và cảm thức tôn giáo xuyên suốt đời sống của xã hội, thì trên hết là nhờ vào lịch sử phong phú trước đó, nhờ sự truyền bá của Kitô giáo ở Trung Á, đã diễn ra ngay từ những thế kỷ đầu tiên, của nhiều người loan báo Tin Mừng và những nhà truyền giáo, những người đã dành cuộc đời của mình để truyền bá ánh sáng của Tin Mừng, thành lập các cộng đoàn, đền thánh, tu viện và nơi thờ tự. Do đó, có một sự thừa kế Kitô giáo, đại kết, cần được tôn vinh và bảo tồn, một sự chuyển trao đức tin vốn đã coi nhiều người đơn sơ là nhân vật chính, nhiều ông bà, cha, mẹ. Trong hành trình thiêng liêng và giáo hội, chúng ta không được đánh mất ký ức về những người đã loan báo đức tin cho chúng ta, bởi vì việc ghi nhớ giúp chúng ta phát triển tinh thần chiêm ngưỡng những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử, ngay cả ngang qua những khó khăn của cuộc sống và sự mỏng dòn cá nhân và cộng đoàn.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha cũng lưu ý về việc gìn giữ ký ức không phải là nhìn lại quá khứ với hoài niệm, mắc kẹt vào những thứ của quá khứ và để bản thân bị tê liệt trong sự bất động: đây là cám dỗ đi lùi. Cái nhìn của người Kitô hữu, khi nhìn về ký ức, mở ra cho chúng ta sự ngạc nhiên trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, để lấp đầy tâm hồn chúng ta với lời ngợi khen và biết ơn về những gì Chúa đã thực hiện. Một trái tim biết ơn, đầy tràn lời ngợi khen, không dung dưỡng sự hối tiếc, thay vào đó chào đón ngày hôm nay đang sống như một hồng ân. Và người ấy muốn lên đường, tiến về phía trước, để tiếp xúc với Chúa Giêsu, giống như các phụ nữ và các môn đệ trên đường Emmaus vào ngày Phục sinh!
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “không có ký ức thì không có sự ngạc nhiên. Nếu chúng ta mất đi ký ức sống động, thì đức tin, lòng sùng kính và các hoạt động mục vụ có nguy cơ tàn lụi, giống như lửa trong chảo, cháy ngay lập tức nhưng sẽ tắt nhanh chóng. Khi chúng ta mất đi ký ức, niềm vui sẽ cạn kiệt. Ngay cả lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và anh chị em cũng suy giảm, bởi vì chúng ta rơi vào cám dỗ khi nghĩ rằng mọi sự tùy thuộc vào chúng ta.” Nếu chúng ta nhìn vào sự thừa kế này, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy đức tin không được truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia như một tập hợp những điều phải hiểu và phải làm, giống như một đoạn mã được lập trình một lần cho mãi mãi. Không, đức tin đã được truyền trao bằng cuộc sống, bằng chứng tá mang ngọn lửa Tin Mừng vào trung tâm của những hoàn cảnh để soi sáng, thanh luyện và lan tỏa hơi ấm an ủi của Chúa Giêsu, niềm vui của tình yêu cứu độ, niềm hy vọng vào lời hứa của Người.
Tương lai
Kế đến Đức Thánh Cha đề cập đến từ thứ hai, tương lai. Ký ức về quá khứ không làm chúng ta khép lại trong chính mình, nhưng mở ra cho chúng ta lời hứa của Tin Mừng. Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng Người sẽ luôn ở với chúng ta: do đó đây không phải là chuyện của lời hứa chỉ nhắm đến một tương lai xa xôi, nhưng chúng ta được mời gọi hôm nay đón nhận sự đổi mới mà Đấng Phục sinh mang lại trong cuộc sống. Bất chấp những yếu đuối của chúng ta, Người không bao giờ mệt mỏi khi ở bên chúng ta, cùng với chúng ta xây dựng tương lai Giáo hội của Người và của chúng ta.
Tất nhiên, khi đối diện với nhiều thách đố của đức tin – đặc biệt là những thách đố liên quan đến sự tham gia của các thế hệ trẻ -, cũng như đối diện với những vấn đề và khó khăn của cuộc sống và nhìn vào các con số, trong bối cảnh rộng lớn của một đất nước như tại đây, người ta có thể cảm thấy “nhỏ” và bất tương xứng. Tuy nhiên, nếu chúng ta tiếp nhận cái nhìn đầy hy vọng của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ khám phá ra một điều đáng ngạc nhiên: Tin Mừng nói rằng sự bé nhỏ, khó nghèo về tinh thần, là một mối phúc, là mối phúc đầu tiên (xem Mt 5,3), bởi vì sự nhỏ bé làm chúng ta khiêm nhường trước quyền năng của Thiên Chúa và để chúng ta không đặt nền tảng hành động của Giáo hội dựa trên khả năng của chúng ta. Đức Thánh Cha gọi đây là một hồng ân, khi là một Giáo hội nhỏ bé; thay vì phô trương sức mạnh, các con số, cơ cấu của chúng ta và mọi hình thức khác do con người, chúng ta để mình được Chúa hướng dẫn và khiêm tốn đặt mình bên cạnh mọi người. Không giàu về điều gì và nghèo về mọi thứ, chúng ta bước đi với sự đơn sơ, gần gũi với anh chị em đồng bào của mình, mang niềm vui của Tin Mừng vào những hoàn cảnh của cuộc sống. Như men trong bột và như hạt giống nhỏ nhất được gieo vào đất (x. Mt 13,31-33), chúng ta sống trong những biến cố vui buồn của xã hội mà chúng ta đang sống, để phục vụ nó từ bên trong.
Cần cộng tác với người khác
Đặc biệt Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc cần cộng tác với người khác: cần anh chị em của những hệ phái khác, của niềm tin tôn giáo khác với chúng ta và của tất cả mọi người nam nữ có thiện chí. Với tinh thần khiêm tốn, chúng ta nhận ra rằng chỉ cùng nhau, đối thoại và chấp nhận lẫn nhau, chúng ta mới có thể thực sự đạt được điều gì đó tốt đẹp cho mọi người. Đó là nhiệm vụ cụ thể của Giáo hội tại đất nước này: không phải là một nhóm tự kéo mình vào những điều thường hằng cũ rích hoặc khép mình trong lớp vỏ bọc vì cảm thấy mình nhỏ bé, nhưng là một cộng đoàn mở ra cho tương lai của Thiên Chúa, được thắp sáng bởi ngọn lửa Thánh Thần: sống động, đầy hy vọng, sẵn lòng với những điều mới và những dấu chỉ của thời đại, được sinh động bởi luận lý Phúc Âm của hạt giống đang sinh hoa kết trái trong tình yêu khiêm tốn và phong nhiêu. Bằng cách này, lời hứa về sự sống và phúc lành mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta qua Chúa Giê-su, không chỉ được thực hiện cho chúng ta, mà còn được thực hiện cho những người khác.
Và điều đó được thực hiện mỗi khi chúng ta sống tình huynh đệ giữa chúng ta, mỗi khi chúng ta chăm sóc người nghèo và những người bị thương tích bởi cuộc sống, mỗi khi trong các mối quan hệ giữa con người và xã hội, chúng ta làm chứng cho công lý và sự thật, bằng cách nói “không” với tham nhũng và giả dối. Các cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt là chủng viện, nên là “trường học của sự chân thành”: không phải là môi trường cứng nhắc và hình thức, nhưng là cơ sở đào tạo chân lý, cởi mở và chia sẻ. Và trong cộng đoàn của chúng ta – hãy nhớ rằng – tất cả chúng ta đều là môn đệ của Chúa: tất cả là môn đệ, tất cả đều quan trọng, tất cả đều có phẩm giá như nhau. Không chỉ các Giám mục, các linh mục và những người thánh hiến, mà mọi người đã được rửa tội đều đã được dìm mình vào sự sống của Chúa Kitô và trong Ngài – như Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta – được mời gọi để lãnh nhận cơ nghiệp và chấp nhận lời hứa của Tin Mừng. Do đó, cần phải trao không gian cho giáo dân: điều này sẽ giúp ích cho anh chị em, để các cộng đoàn không trở nên cứng nhắc và giáo sĩ trị. Một Giáo hội hiệp hành, trên con đường dẫn đến tương lai của Thánh Thần, là một Giáo hội có sự tham gia và đồng trách nhiệm. Đó là một Giáo hội có khả năng đi ra gặp gỡ thế giới bởi vì nó được đào tạo trong sự hiệp thông. Sự cởi mở, niềm vui và sự sẻ chia là những dấu hiệu của Giáo hội khởi nguồn, và chúng cũng là những dấu chỉ của Giáo hội tương lai. Chúng ta hãy ước mơ và với ân sủng của Thiên Chúa, xây dựng một Giáo hội có thêm niềm vui của Đấng Phục sinh, nơi loại bỏ những sợ hãi và phàn nàn, không để cho mình bị cứng nhắc bởi chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa duy luân lý.
Cần mục tử gần gũi
Cuối cùng Đức Thánh Cha đưa ra một mẫu gương, là Chân phước Bukowiński, một linh mục đã dành cả cuộc đời mình để chăm sóc những người bệnh tật, những người nghèo khổ và bị thiệt thòi, trả giá trên chính da thịt của mình cho sự trung thành với Tin Mừng bằng tù ngục và lao động khổ sai. Ngay cả trước khi ngài được phong chân phước, trên mộ của ngài luôn có những hoa tươi và một ngọn nến thắp sáng. Đó là sự xác nhận rằng Dân Chúa nhận biết nơi nào có sự thánh thiện, nơi nào có mục tử yêu mến Tin Mừng. Đức Thánh Cha nhắn nhủ riêng với các Giám mục, linh mục, và cả các chủng sinh rằng đây là sứ mạng của chúng ta: không phải là quản trị viên của các điều thánh hay người canh chừng việc thực thi các chuẩn mực tôn giáo, nhưng là những mục tử gần gũi với mọi người, những biểu tượng sống động của trái tim nhân từ của Chúa Kitô.
Cuối buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha đã cùng những người hiện diện hát Kinh Lạy Cha bằng tiếng Latinh và ngài ban phép lành cho họ.
Sau khi chụp hình lưu niệm và chào cá nhân một số người, Đức Thánh Cha ra xe để trở về Toà Sứ Thần để nghỉ trưa.